Trong bài viết này chúng tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu thông tin và kiến thức về Phân tích khổ thơ cuối vội vàng hot nhất hiện nay được bình chọn bởi người dùng
“Vội vàng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu. Cunghocvui xin gửi tới các bạn bài phân tích khổ cuối bài Vội vàng nhằm đem lại cảm nhận một cách đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất về khổ thơ, giúp các bạn thuận tiện hơn khi học tập môn Ngữ văn 11. Hy vọng với tài liệu tham khảo “phân tích khổ thơ cuối bài Vội vàng” này sẽ giúp ích thầy cô và các bạn.
Đề bài: Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Vội vàng
Đến với thế giới thi ca là đến với thế giới của muôn vàn cảm xúc. Ta từng biết đến một Thế Lữ “rộng mở”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”. Và thật thiếu sót khi nhắc đến đỉnh cao Thơ mới khi ta quên mất cái tên Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Theo Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Ông đã thổi vào nền văn học đương đại một luồng gió mới đầy độc đáo, mới lạ và mang đầy tính nhân văn. Và một trong những vần thơ thể hiện rõ nhất quan niệm ấy là khổ cuối bài “Vội vàng”.
Xuân Diệu quê ở Hà Tĩnh “cha đàng ngoài, mẹ đàng trong”. Cha ông là ông đồ Nghệ dạy học ở Bình Định, mẹ là cô gái lao động làm nước mắm quê ở Gò Bồi (Bình Định). Những câu hát ví dặm quê cha, điệu hò lý quê mẹ nuôi dưỡng hồn thơ Xuân Diệu cùng với đó là biển xanh cát trắng Quy Nhơn với cơn gió nồm nam mát rươi tạo nên một hồn thơ say đắm với chất giọng mượt mà. Ông là một trí thức Tây học, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường nên con người ông có sự kết hợp giữa cổ điển – hiện đại. Tư tưởng chi phối toàn bộ sự nghiệp thơ Xuân Diệu là niềm khao khát giao cảm với đời nhưng ông vẫn muốn cái tôi được khẳng định chói lọi. Thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ, Xuân Diệu nhìn đời bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn để phát hiện ra vẻ đẹp cuộc đời mà ít ai để ý tới. Và “Vội vàng” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất.
Nhà thơ Xuân Diệu
Xem thêm: Top 26 mẫu Viết đoạn văn ngắn về một việc làm góp phần bảo vệ
“Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ” (1938) gồm bốn mươi lăm bài sáng tác từ năm 1933 đến 1938, là tập thơ đầu thể hiện rõ tư tưởng và phong cách thơ Xuân Diệu trước Cách mạng. “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Hai chữ “Vội vàng” chứa đựng cả một tâm thế sống: Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận mọi vẻ đẹp của cuộc đời trần thế vừa chứa đựng triết lý sống: Cuộc đời con người là hữu hạn, vì vậy cần sống tích cực, đủ đầy và ý nghĩa, chạy đua với thời gian để không phải tiếc nuối điều gì.
Nếu ở đoạn thơ đầu, tác giả xưng tôi nhằm thể hiện bản lĩnh cá nhân và đối thoại với đồng loại thì đến khổ cuối, nhà thơ xưng ta để đối diện với sự sống, để tìm sự đồng điệu, đồng cảm cùng cái ta cộng đồng, khát khao chiếm giữ sự sống trọn vẹn, đủ đầy:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Câu thơ “Ta muốn ôm” thắt lại giữa bài khiến ta liên tưởng đến vòng tay của thi nhân ôm giữ cuống quýt cả sự sống non tơ. Không giống như người bạn thân Huy Cận lấy cảm hứng từ những không gian rộng lớn, bị ám ảnh bởi “sầu không gian” thì Xuân Diệu luôn ám ảnh bởi thời gian trôi chảy không ngừng. Với thời gian, nếu Chế Lan Viên chối bỏ mùa xuân hiện tại để quay về quá khứ “Làm cánh chim thu lạc cuối ngàn” thì Xuân Diệu say sưa, gắn bó với mùa xuân, với cuộc đời bằng cách thâu tóm mọi sự sống nhân gian. Ông theo đuổi hạnh phúc bằng lối sống cuống quýt, vội vàng để tận hưởng mọi vẻ đẹp của đất trời.
Trước thiên nhiên bao la rộng lớn, Xuân Diệu như mở rộng tầm mắt của mình để thâu tóm. Sau bao đau đớn, tuyệt vọng về sự hữu hạn của đời người, về sự trôi chảy tuyến tính của thời gian đất trời, những câu thơ tiếp nối nhau như để góp phần làm bùng cháy lên một khát vọng mãnh liệt:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Xem thêm: Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (Bài văn mẫu 1)
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Điệp ngữ “Ta muốn” lặp lại năm lần, mỗi lần lại tha thiết, mạnh mẽ hơn tạo âm hưởng dồn dập, khẩn thiết trở thành cao trào của khát vọng sống. Các động từ phát triển theo cấp độ từ thấp đến cao như ôm, riết, thâu, cắn nhằm thể hiện một cảm xúc ngày càng mãnh liệt. Hồn thơ Xuân Diệu như cánh buồm giương to, căng phồng nhịp tình sống. Ta cảm giác nhà thơ không chỉ giục giã mà còn hăm hởm lao vào, ôm ghì sự sống để tận hưởng sắc hương và mật ngọt của đời. Bổ ngữ cho hệ thống động từ là một loạt những hình ảnh mây đưa, gió lượn, cánh bướm, non nước, cây cỏ. Phép liệt kê khiến bức tranh hiện lên có hình dáng, màu sắc. Mùa xuân như đôi môi người thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy năng lượng sống và thi sĩ muốn dành nụ hôn để thâu tóm non nước, cỏ cây. Liên từ “và” lặp lại ba lần trong một câu thơ nhằm nhấn mạnh cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong trái tim yêu đời của thi sĩ. Phân tích khổ cuối bài thơ “Vội vàng”, ta có thể cảm nhận được rằng mọi khung cảnh của thiên nhiên đều được nhìn qua lăng kính của một trái tim yêu vì thế cảnh vật không hề u buồn như “Gió theo lối gió, mây đường mây” của Hàn Mặc Tử mà rạo rực, duyên dáng giữa đất trời. Cho dù đã tận hưởng, tận hiến đầy vòng tay nhưng vẫn không ngừng bởi đã tận hưởng thì phải lên tới tột đỉnh:
Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Điệp từ “cho” lặp lại ba lần kết hợp với biện pháp liệt kê nhằm diễn cả sự ham sống, muốn tận hưởng thiên nhiên một cách cao nhất, mãnh liệt nhất. Thời tươi đó với ông là khoảng thời gian của tình yêu và tuổi trẻ. Không thể tắt nắng, buộc gió, không thể can dự vào quy luật tất yếu của tạo hóa cũng như kéo dài tuổi xuân của mỗi đời người, cái duy nhất ta có thể chọn là một lối sống cho mình. Sống tận hưởng, tận hiến để không phí hoài thời gian, ôm trọn mọi khoảnh khắc của đời người. Tất cả như tròn đầy trong tâm hồn thi nhân, tràn ra từng câu chữ:
Xem thêm: Những bài văn mẫu Tả ngôi nhà em đang ở lớp 5 (Chọn lọc)
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Nghệ thuật làm thơ khó nhất là ở câu cuối vì nó vừa phải nâng cao cảm xúc vừa chứng tỏ sự vận động của tứ thơ đạt tới độ hoàn hảo không thể thêm bớt. Xuân Diệu đã vượt qua được ranh giới đó khi bật lên tiếng thơ chân thành, đầy khao khát. Ta từng biết “Mùa xuân chín” trong thơ Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” trong thơ Nguyễn Bính nay ta bắt gặp trái xuân hồng trong thơ Xuân Diệu. Nó như một trái quả ngọt lành mà thi sĩ muốn cắn ngập răng để tận hưởng. Với câu thơ này, một nhà phê bình đã tinh tế nhận ra rằng: “Xuân Diệu giống như một con ong hút nhụy đã no nê đang lao đao bay đi”. Đây quả là sự giao cảm táo bạo, mãnh liệt của một trái tim căng tràn tình yêu, sức sống.
Một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế không chỉ gợi được sức sống mà còn gợi được cả cháy khao rực cháy hối hả cuốn quýt trong tâm hồn thi nhân. Nếu trong thi ca trung đại, thiên nhiên là tiêu chí đánh giá cho mọi vẻ đẹp của cuộc đời, là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ thì Xuân Diệu lại đưa ra tiêu chí mới, giàu tính nhân văn sâu sắc. Con người hồng hào, tươi trẻ giữa tuổi trẻ và tình yêu mới là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian. Mùa xuân như đôi môi ửng hồng của người thiếu nữ, tràn đầy sự trinh nguyên và một chút rạo rực của tình yêu.
“Vội vàng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu, toàn bộ bài thơ nói chung và khổ cuối nói riêng là một khúc ca say đắm yêu đời của một trái tim trẻ trung, sôi nổi; của cặp mắt xanh non, biếc rờn; ở sự bày tỏ khát vọng chân thành, thiết tha. Với sự kết hợp giữa việc sử dụng ngôn từ tăng theo cấp bậc tăng tiến và hình ảnh thơ đa sắc màu, lời thơ nhẹ nhàng, say đắm, “Vội vàng” đã đi vào trong lòng người đọc và để lại nhiều dư ba về một lối sống tích cực, khát khao giao cảm với đời.
Xem thêm >>> Soạn bài Vội vàng (Xuân Diệu)
Sơ đồ tư duy bài thơ Vội vàng
Với bài phân tích khổ cuối bài Vội vàng, Cunghocvui đã đem lại cho các bạn bài viết tham khảo đầy đủ và chi tiết nhất. Nếu có đóng góp gì cho phân tích khổ cuối bài thơ Vội vàng, hãy để lại ở phần bình luận nhé!
Bản quyền nội dung thuộc Nhất Việt Edu
Bài viết liên quan